Biểu đồ địa chấn (seismogram) là biểu đồ ghi nhận dao động của bề mặt đất, được ghi lại bởi máy đo địa chấn (seismometer).
Theo dõi một biểu đồ địa chấn, có thể thấy dao động đầu tiên ghi nhận được đó là sóng P, bởi đây là thành phần sóng địa chấn có tốc độ lan truyền nhanh nhất. Tiếp theo đó, biên độ dao động tăng lên đáng kể, chính là do thành phần sóng S truyền đến và gây ra. Các dao động sau cùng chính là thành phần sóng bề mặt. Bằng phương pháp này, có thể sơ bộ nhận diện các thành phần sóng địa chấn trong một trận động đất.
Trong trường hợp đặc biệt nếu biểu đồ không ghi nhận được sóng S, có thể sơ bộ tiên đoán rằng tâm chấn nằm ở nửa bên kia quả đất. Lý do là vì sóng S không thể truyền qua lớp mắc ma ở lõi quả đất, do đó sóng S không truyền tới được trạm đo (xem hình minh họa).
Sóng bề mặt thường có độ lớn rõ nét dễ nhận biết trên biểu đồ địa chấn. Đặc điểm của loại sóng này là tần số thấp, do đó bước sóng dài hơn. Sóng bề mặt lan truyền với tốc độ chậm hơn một chút so với sóng S, cho nên thường xuất hiện ngay sau sóng S. Đối với các trận động đất có tâm chấn nông (tức là tâm chấn nằm gần sát bề mặt quả đất), sóng bề mặt thường là thành phần chủ yếu gây ra dao động lớn ghi nhận được trên biểu đồ địa chấn.
Khi có động đất xảy ra, dựa vào biểu đồ địa chấn, có thể sơ bộ xác định một vài thông số của trận động đất như: khoảng cách từ tâm chấn đến trạm đo thông qua khoảng cách thời gian giữa sự xuất hiện của sóng P và sóng S, hay cường độ địa chấn thông qua độ lớn cực đại của biên độ dao động.
Nam TT
Comments
Post a Comment